Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) là một ký sinh trùng microsporidian lần đầu tiên được mô tả và đặt tên khi chúng được phát hiện trên tôm càng xanh và tôm sú P. monodon tại Thái Lan năm 2009 (Tourtip et al 2009. J. Invertebr Pathol 102: 21-29).
Mặc dù EHP không gây tử vong, nhưng nó có liên quan đến sự chậm phát triển của tôm P. vannamei.
Phương pháp tốt nhất cho các cơ sở nuôi và sản xuất giống để tránh EHP là không bao giờ sử dụng động vật sống (ví dụ, giun nhiều tơ sống, nghêu, sò, v..v) làm thức ăn cho tôm bố mẹ…
Kêu gọi khẩn cấp phòng sự lây lan của ký sinh trùng Microsporidian trên tôm nuôi
Mặc dù EHP không xuất hiện để gây tử vong, những thông tin từ người nuôi tôm chỉ ra rằng nó có liên quan đến sự chậm phát triển nghiêm trọng ở P. vannamei. Do đó, chúng tôi bắt đầu cảnh báo nông dân châu Á và các nhà quản lý trại giống sau năm 2009 để theo dõi P. vannamei và P. monodon đối với EHP ở tôm bố mẹ và tôm giống (PL). Tuy nhiên, những lời cảnh báo không được chú ý vì sự tập trung chú ý cao độ hướng về hội chứng tử vong sớm (EMS) hay bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND). Chúng tôi sợ rằng sự thiếu quan tâm đối với EHP sẽ dẫn đến: sự phát triển và lây lan của nó trong hệ thống sản xuất bị che phủ bởi EMS/AHPND vì EMS giết chết tôm trước khi những tác động tiêu cực của EHP có biểu hiện rõ ràng. Chúng tôi lo ngại rằng giải pháp cho vấn đề EMS/AHPND, có thể sẽ dẫn đến sự lan truyền phổ biến của vấn đề tăng trưởng chậm ở tôm nuôi. Thật vậy, điều này có vẻ như đã xảy ra trong năm vừa qua. Chúng ta đã có thông tin cho thấy dịch EHP đang xảy ra rộng rãi ở Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Việt Nam và Thái Lan. Rất gần đây, chúng tôi cũng đã nhận được các mẫu PCR dương tính với EHP từ tôm tăng trưởng chậm ở Ấn Độ. Như vậy, EHP là một vấn đề đang nổi lên và cần những giải pháp cấp thiết để kiểm soát.
Làm thế nào để kiểm soát lây lan của EHP
Phương pháp PCR và phương pháp LAMP là sẵn sàng để kiểm tra phân của tôm bố mẹ và để kiểm tra toàn bộ PL để phát hiện EHP (Tangprasittipap et al 2013. BMC Vet Res 9:139; Suebsing et al 2013. J Appl Microbiol 114: 1254-1263). Các tác nhân gây bệnh cũng có thể được phát hiện bằng kính hiển vi phóng đại 100 lần, với phần mô gan tụy nhuộm màu hay mẫu phết gan tụy, điều này dựa vào việc tìm kiếm các bào tử đặc trưng (nhỏ hơn 1 micron chiều dài) và đôi khi chỉ xuất hiện số lượng nhỏ, thậm chí trong các mẫu nhiễm nặng nề. Như vậy, phương pháp sử dụng PCR phát hiện được khuyến cáo.
Chúng tôi có dữ liệu cho thấy rằng hầu hết các con giống SPF của P. vannamei nhập khẩu vào Thái Lan đều âm tính với EHP nhưng chúng thường bị lây nhiễm tại các cơ sở ương và sản xuất giống vì sự áp dụng thực hành an toàn sinh học ít ỏi. Một lỗi nghiêm trọng trong thực hành an toàn sinh học là sự phổ biến của việc sử dụng động vật sống (ví dụ, giun nhiều tơ, trai…) từ các nguồn địa phương hoặc nhập khẩu để nuôi tôm bố mẹ, bất chấp cảnh báo liên tục của chúng tôi trong thực tế. Chúng tôi có dữ liệu chắc chắn rằng một số giun nhiều tơ từ nguồn trong nước và nhập khẩu ở châu Á có thể cho kết quả xét nghiệm PCR dương tính với cả vi khuẩn AHPND và EHP. Tuy nhiên, cũng có khả năng một số con giống nhập khẩu P. vannamei có nhãn SPF cũng có thể là bị nhiễm EHP, vì nó không có trong danh sách OIE và được sử dụng bởi nhiều nhà cung cấp SPF hoặc cơ quan kiểm dịch động vật có trách nhiệm xác nhận tình trạng SPF. Vấn đề này có thể được sửa chữa bằng cách thêm EHP vào danh sách SPF của cả nhà cung cấp và các cơ quan kiểm dịch. Phân của tôm bố mẹ có thể được kiểm tra sự hiện diện của EHP bằng PCR.
Phương pháp tốt nhất cho các cơ sở nuôi và sản xuất giống để tránh EHP là không bao giờ sử dụng động vật sống (ví dụ, giun nhiều tơ sống, nghêu, sò, v..v) làm thức ăn cho tôm bố mẹ. Nếu lời khuyên này được bỏ qua, ở mức tối thiểu rất, thức ăn như vậy nên được đông lạnh trước khi sử dụng vì ít nhất điều này sẽ giết chết vi khuẩn AHPND và EHP. Tốt hơn hết, thức ăn tươi sống nên được thanh trùng (đun ở 70oC trong 10 phút) vì nó cũng sẽ tiêu diệt phần lớn virus trên tôm (mà nếu đông lạnh sẽ không làm được). Một lựa chọn khác được sử dụng là thực hiện chiếu xạ gamma với thức ăn đông lạnh.
Làm thế nào để kiểm soát EHP trong trại giống
Vi khuẩn EHP và AHPND đã được tìm thấy trong cả tôm bố mẹ từ Trung Quốc, Việt Nam và Thái Lan. Cả hai cũng đã được báo cáo phát hiện từ mẫu giun nhiều tơ sống dùng để nuôi tôm bố mẹ. EHP có thể bị nghi ngờ nếu tôm giống từ trại giống bất kỳ tăng trưởng chậm hơn so với dự đoán.
Vì vậy, vấn đề đầu tiên để đảm bảo rằng các cơ sở nuôi vỗ thành thục và cơ sở sản xuất giống là SẠCH! Để đạt được mục tiêu này, tất cả tôm cần phải được di dời khỏi trại giống, sau đó tiến hành khử trùng sau khi vệ sinh sạch trại giốngbằng dung dịch Natri Hydroxit 2.5% (NaOH 25 gms /L nước ngọt) và vệ sinh sạch lại sau 3 giờ. Quá trình này nên áp dụng cho tất cả các thiết bị, các bộ lọc, bể chứa và đường ống. Sau khi rửa để loại bỏ các NaOH, các trại giống nên được để khô trong 7 ngày. Sau đó, nó cần phải được rửa sạch lại bằng dung dịch Chlorine (200 ppm ở pH <4.5).
Vấn đề tiếp theo là tôm bố mẹ. Như đã nêu ở trên một số tôm bố mẹ SPF đã cho kết quả xét nghiệm PCR dương tính với EHP nhưng không cho vi khuẩn AHPND. Vì vậy, tôm bố mẹ SPF mục tiêu cũng nên được kiểm tra EHP khi kiểm dịch, trước khi được nhận vào một cơ sở sản xuất giống nuôi thành thục . Công việc của chúng tôi ở Thái Lan cho thấy rằng, tôm giống tại các ao nuôi địa phương, có nguồn gốc tôm SPF nhập khẩu, cho thấy mức độ rất cao về tỷ lệ nhiễm EHP. Như đã nêu ở trên, phân tôm bố mẹ có thể được kiểm tra EHP bằng phương pháp PCR sử dụng chiết xuất DNA từ phân. Sự xác nhận sẽ được tiến hành trên mô HP tôm giống.
Làm thế nào để kiểm soát EHP trong trại nuôi
Đối với nông dân, có hai vấn đề chính phải đối mặt. Vấn đề đầu tiên là để đảm bảo rằng con giống được sử dụng cho các ao nuôi không bị nhiễm EHP. Điều này có thể được thực hiện dễ dàng bằng cách xét nghiệm PCR. Nếu DNA đã được chiết xuất từ con giống để kiểm tra vi khuẩn gây bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (EMS/AHPND) bằng PCR, một phần của các chiết xuất DNA tương tự có thể được sử dụng để kiểm tra EHP. Nông dân không nên sử dụng lô giống dương tính đối với một trong những tác nhân gây bệnh này cho các ao nuôi.
Vấn đề thứ hai của nông dân liên quan đến việc chuẩn bị ao thích hợp ao giữa chu kỳ canh tác, đặc biệt là khi một ao canh tác trước đây đã bị ảnh hưởng bởi EHP. Các bào tử của EHP có màng dày, không dễ dàng để làm bất hoạt. Thậm chí nồng độ Chlorine cao cũng không có hiệu quả. Ngoài ra, điều kiện môi trường thích hợp hiện chưa rõ. Cả hai có thể cùng tồn tại trong ao sau khi thu hoạch và điều quan trọng là làm cả hai bị bất hoạt trước khi chu kỳ canh tác tiếp theo.
Để khử trùng ao đất đối với bào tử EHP, sử dụng CaO (vôi sống, vôi nóng) 6 tấn/ha. Rải CaO vào đáy ao khô và sau đó làm ẩm đáy để kích hoạt vôi. Sau đó để 1 tuần trước khi phơi khô hoặc bơm nước. Sau khi sử dụng CaO, độ pH của đất sẽ tăng lên 12 hoặc nhiều hơn cho một vài ngày và sau đó trở lại mức bình thường khi nó hấp thụ Carbon dioxide và trở thành CaCO3.
Một Cảnh báo đặc biệt cho Mexico
Có tin đồn rằng sự bùng phát của AHPND ở Mexico có nguồn gốc từ tôm bố mẹ P. vannamei bị lây nhiễm, nhập lậu vào Mexico từ châu Á. Nếu những tin đồn là đúng sự thật, đưa ra tỷ lệ lây nhiễm cao của EHP ở khu vực châu Á, điều đó là khá chắc chắn rằng tôm nhập khẩu cũng sẽ bị nhiễm EHP. Vì vậy, các cơ quan kiểm dịch cần khẩn cấp kiểm tra mẫu DNA tôm Mexico được lưu trữ và hiện tại, để theo dõi các vi khuẩn AHPND bằng PCR và cũng để kiểm tra sự hiện diện của EHP DNA bằng PCR. Nếu họ tìm thấy chúng, điều đó sẽ hỗ trợ cho giả thuyết rằng vi khuẩn AHPND bị nhiễm qua đường nhập khẩu từ châu Á. Đó cũng có thể là một biện pháp phòng ngừa kịp thời và tiếp tục giám sát nhập khẩu tôm giống để ngăn chặn một loài ký sinh trùng ngoại lai xâm nhập vào Mexico và phần còn lại của châu Mỹ.
Nguồn: http://www.shrimpnews.com
Người dịch: KS ĐỖ NGỌC TUẤN – CÔNG TY VINHTHINHBIOSTADT